Thành phố Đà Nẵng City là thành phố lớn đứng thứ 4 ở Việt Nam sau thành phố Hồ Chí Minh, thủ đô Hà Nội và Tp. Hải Phòng về đô thị hóa & tiềm lực phát triển kinh tế. Tp. Đà Nẵng là đô thị loại I và là 1 trong 5 thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam. Đà Nẵng trong mắt của người Việt Nam là một thành phố du lịch biển xanh – sạch – đẹp, và nơi đáng sống, là mơ ước của nhiều người. TP. Đà Nẵng cũng nằm trong danh sách Top 10 địa điểm nổi tiếng đẹp nhất Việt Nam.
Thành phố Đà Nẵng City là thành phố lớn đứng thứ 4 ở Việt Nam sau thành phố Hồ Chí Minh, thủ đô Hà Nội và Tp. Hải Phòng về đô thị hóa & tiềm lực phát triển kinh tế. Tp. Đà Nẵng là đô thị loại I và là 1 trong 5 thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam. Đà Nẵng trong mắt của người Việt Nam là một thành phố du lịch biển xanh – sạch – đẹp, và nơi đáng sống, là mơ ước của nhiều người. TP. Đà Nẵng cũng nằm trong danh sách Top 10 địa điểm nổi tiếng đẹp nhất Việt Nam.
Thành phố Đà Nẵng có khá nhiều địa điểm tôn giáo gắn liền với cảnh quan thiên nhiên của thành phố. Tạo điều kiện lý tưởng để liên kết các khu du lịch chất lượng cao, liên kết các thắng cảnh núi rừng – biển với các điểm đến văn hóa tâm linh. Các điểm du lịch văn hóa tâm linh tại Đà Nẵng gồm:
Ngoài các dịch vụ du lịch tự nhiên và du lịch tâm linh, thành phố Đà Nẵng còn được biết đến là một địa điểm sôi động với các hoạt động trải nghiệm du lịch ngay giữa lòng thành phố.
Việc xây dựng mới cảng Liên Chiểu và cảng Tiên Sa sẽ được Đà Nẵng quy hoạch chuyển đổi thành bến tàu du lịch biển, mang tên bến tàu du lịch Tiên Sa. Tại đây, du lịch tàu biển Tiên Sa và cảng biển Tiên Sa sẽ được phát triển thành cảng du lịch tàu biển hàng đầu Việt Nam và cả khu vực Đông Nam Á.
Sáng 31/12, Đại học Đà Nẵng đã tổ chức lễ công bố Quyết định công nhận 03 Hiệu trưởng nhiệm kỳ 2019 - 2024 của 03 trường đại học thành viên gồm Trường ĐH Kinh tế, ĐH Sư phạm và ĐH Ngoại ngữ.
Tại buổi lễ sáng 31/12, lãnh đạo Đại học (ĐH) Đà Nẵng đã công bố Quyết định công nhận 03 Hiệu trưởng 03 trường ĐH thành viên nhệm kỳ 2019 - 2024. Theo đó, PSG.TS Nguyễn Mạnh Toàn được bổ nhiệm giữ chức vụ Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế - ĐH Đà Nẵng; PGS.TS Lưu Trang được bổ nhiệm gữ chức Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm - ĐH Đà Nẵng; PGS.TS Trần Hữu Phúc được bổ nhiệm giữ chức Hiệu trưởng Trường ĐH Ngoại ngữ - ĐH Đà Nẵng.
PGS.TS Nguyễn Ngọc Vũ, Giám đốc ĐH Đà Nẵng trao Quyết định bổ nhiệm 03 Hiệu trưởng của 3 trường thành viên là ĐH Kinh tế, ĐH Sư phạm và ĐH Ngoại ngữ (Ảnh: HC)
Phát biểu tại buổi lễ, PGS.TS Nguyễn Ngọc Vũ, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng ĐH Đà Nẵng cho hay, các trường hợp nêu trên đều là bổ nhiệm lại chức vụ mà các PGS.TS Nguyễn Mạnh Toàn, Lưu Trang và Trần Hữu Phúc đang giữ tại 03 trường ĐH Kinh tế, Sư phạm và Ngoại ngữ thuộc ĐH Đà Nẵng.
“Với những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ vừa qua, cùng với uy tín cá nhân và những cống hiến cho sự phát triển của nhà trường nên cả 3 người đều được tập thể lãnh đạo, Đảng ủy, Hội đồng trường và cán bộ chủ chốt tín nhiệm rất cao, có người đã đạt được tỉ lệ tín nhiệm gần như 100% qua tất cả các bước ở cả cấp trường và cấp ĐH Đà Nẵng” - PGS.TS Nguyễn Ngọc Vũ cho hay.
Tuy nhiên PGS.TS Nguyễn Ngọc Vũ cũng cho biết, bên cạnh sự ghi nhận, đánh giá cao đối với sự lãnh đạo của các vị Hiệu trưởng nêu trên trong nhiệm kỳ vừa qua thì “đây đó vẫn còn một vài ý kiến băn khoăn, tâm trạng, có thể nói là những “giọt buồn” mà tất cả chúng ta phải cùng nhau suy ngẫm để làm tốt hơn nữa trong nhiệm kỳ đến”!
Vì vậy, ông yêu cầu các Hiệu trưởng vừa được bổ nhiệm lại khẩn trương hoàn thiện bộ máy lãnh đạo, quản lý của nhà trường, trước hết là Ban giám hiệu, sau đó là các Trưởng, phó phòng, Trưởng, phó khoa của nhà trường đảm bảo đúng quy định, phát huy dân chủ để lựa chọn được những người có đức, có tài, có tinh thần trách nhiệm và đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đồng thời quyết liệt đổi mới nội dung, chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy theo yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đi đôi với thực hiện kiểm định để nâng cao chất lượng đào tạo; đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, hợp tác chặt chẽ với các địa phương, doanh nghiệp để giải quyết những vấn đề của thực tiễn đặt ra;
Chủ động tham gia phản biện xã hội để trường ĐH thực sự trở thành trung tâm nghiên cứu và chuyển giao côn nghệ; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa đầu tư cơ sở vật chất và thu nhập của người lao động, trong đó đầu tư cho con người phải ưu tiên đi trước một bước, chú trọng nâng cao đời sống cán bộ, viên chức để thu hút, giữ chân người tài…
Tư vấn và hướng dẫn làm thủ tục, Hỗ trợ 24/24 · Tận Tình - Trách Nhiệm ......
Theo đó, thực hiện Công văn số 2558/LĐTBXH-VP ngày 05/8/2021 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) về việc phối hợp triển khai Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, Sở LĐTBXH hướng dẫn thành phần hồ sơ đề nghị hỗ trợ đối với NLĐ tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ như sau:
Trường hợp người SDLĐ và NLĐ có văn bản thỏa thuận tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương thì sử dụng văn bản thỏa thuận đó.
Trường hợp do dịch bệnh hoặc nguyên nhân bất khả kháng không thể thỏa thuận bằng văn bản, người SDLĐ và NLĐ có thể thỏa thuận bằng các hình thức khác (qua điện thoại, tin nhắn, thư điện tử,…).
Khi có sự thống nhất thỏa thuận về việc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương giữa hai bên thì NSDLĐ ghi rõ cách thức thỏa thuận vào cột “Ghi chú” tại Mẫu số 05 ban hành kèm theo Quyết định 23/2021/QĐ-TTg và chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung thỏa thuận…
Được biết cùng ngày 06/8, Sở LĐTBXH cũng đã ban hành Công văn số 2294/SLĐTBXH-LĐTLBHXH đề nghị Ủy ban nhân dân quận, huyện tuyên truyền, phổ biến chính sách để NSDLĐ biết, sớm lập danh sách đề nghị hỗ trợ cho NLĐ; nhanh chóng triển khai chi trả thông qua tài khoản ngân hàng hoặc trực tiếp tới NLĐ, đặc biệt là tại những doanh nghiệp có số lượng lớn NLĐ đang ở khu vực bị cách ly, phong tỏa hoặc đã di chuyển về quê; rút ngắn thời gian thẩm định, phê duyệt theo các quy trình quy định tại Điều 16 và các điều khoản khác liên quan tại Quyết định 23/2021/QĐ-TTg, tạo điều kiện tốt nhất cho NLĐ, NSDLĐ sớm tiếp cận và thụ hưởng chính sách./.
Với nhiều tiềm năng lợi thế cùng những nỗ lực không ngừng trong việc cải thiện môi trường đầu tư, Đà Nẵng đang nhanh chóng trở thành
một trong những điểm đến hấp dẫn thu hút dòng vốn trong và ngoài nước.
TRONG ẢNH: Một góc Đà Nẵng hôm nay. Ảnh: XUÂN SƠN
Tháo gỡ khó khăn để thu hút đầu tư
Theo ông Hồ Anh Tuân, Phó Giám đốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) - Chi nhánh Đà Nẵng, thành phố còn nhiều dư địa để cải thiện tốt hơn nữa môi trường kinh doanh, nâng cao hiệu quả các chủ trương, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Cụ thể, một trong những lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư của thành phố là công nghiệp công nghệ cao.
Đây là lĩnh vực rất “kén” lao động, do vậy, ngoài những chính sách trong thu hút đầu tư hiện nay, Đà Nẵng cần có những chính sách giúp doanh nghiệp, nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời xem đây là chiến lược, khâu đột phá trong thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút đầu tư ở những ngành nghề có hàm lượng công nghệ cao, tạo nhiều giá trị gia tăng.
Ngoài ra, công tác đào tạo, cung ứng nguồn lao động cần được quan tâm nhằm đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Trong thu hút đầu tư, hoạch định chiến lược phát triển, thành phố cần quan tâm đến yếu tố liên kết vùng nhằm tạo không gian, động lực phát triển lớn hơn cho Đà Nẵng và của vùng. Một vấn đề quan trọng nữa là tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong tiếp cận đất đai, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất nằm ngoài khu công nghiệp, bởi đây là nhóm đối tượng gặp khó khăn trong tiếp cận đất đai.
Đồng quan điểm về sớm cụ thể hóa cơ chế, chính sách đầu tư, ông Lê Trí Hải, Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ thành phố cho hay, hội mong muốn khi thu hút được các nhà đầu tư mới tới Đà Nẵng, lãnh đạo thành phố sẽ có chính sách để khơi thông cho các dự án của các nhà đầu tư cũ. Hội cũng kỳ vọng Diễn đàn Đầu tư Đà Nẵng 2022 sẽ là cơ hội để các doanh nghiệp, nhà đầu tư giao lưu, kết nối, tìm kiếm cơ hội hợp tác, góp phần làm sôi động thị trường Đà Nẵng sau hơn 2 năm bị ảnh hưởng bởi Covid-19. Thành phố cần đẩy mạnh việc đầu tư, hoàn thiện dịch vụ phụ trợ, hỗ trợ tại các khu, cụm công nghiệp của thành phố; hoàn thiện, nâng cao chất lượng dịch vụ logistics của thành phố nhằm hỗ trợ tốt cho hoạt động sản xuất, thương mại của các doanh nghiệp.
Bày tỏ về tín hiệu tích cực của diễn đàn, ông Phạm Bắc Bình, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố cho biết, hiệp hội rất mong sẽ có nhiều doanh nghiệp “đại bàng” chọn Đà Nẵng để “làm tổ”, bởi lẽ nếu thu hút được doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng được lợi khi thành phố mở rộng các khu công nghiệp, có các chính sách hỗ trợ, thu hút doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng sẽ phát triển được ngành công nghiệp hỗ trợ, cụ thể là sản xuất linh kiện cho các doanh nghiệp lớn.
Sự kiện Diễn đàn Đầu tư Đà Nẵng 2022 là cơ hội tốt để thành phố quảng bá tiềm năng, lợi thế nhằm thu hút thêm nhiều nhà đầu tư mới.
TRONG ẢNH: Hoạt động sản xuất ở Nhà máy sản xuất linh kiện hàng không vũ trụ Sunshine, Khu công nghệ cao Đà Nẵng. Ảnh: THÀNH LÂN
Mở ra cơ hội mới cho doanh nghiệp
Mong muốn có nhiều nhà đầu tư lớn tới Đà Nẵng, qua đó tạo thêm những cực tăng trưởng mới cho kinh tế thành phố là ý kiến của đa số doanh nghiệp. Ông Hà Đức Hùng, Tổng Giám đốc Công ty CP Cơ khí Hà Giang - Phước Tường (Khu công nghiệp Hòa Cầm, quận Cẩm Lệ) cho rằng, sự kiện Diễn đàn Đầu tư Đà Nẵng 2022 thể hiện quyết tâm của thành phố trong việc thu hút đầu tư. Sự kiện này được tổ chức đúng thời điểm khi các doanh nghiệp toàn cầu đang tìm nơi sản xuất mới để phân tán các rủi ro.
Vì vậy, Đà Nẵng cần làm sao để thu hút đầu tư một cách khôn ngoan nhất và diễn đàn sẽ là cơ hội để nắm bắt ý kiến. “Với tư cách là doanh nghiệp đã đầu tư trong khu công nghiệp, tôi cho rằng thành phố cần có những chính sách, cách làm đột phá để rút ngắn thời gian cho doanh nghiệp đầu tư; đồng thời có chính sách chăm sóc tốt để các doanh nghiệp mời gọi thêm nhà đầu tư về Đà Nẵng”, ông Hùng bày tỏ.
Ông Jeon Chang Hyun, Giám đốc đối ngoại Công ty TNHH ICT Vina Đà Nẵng (Khu Công nghệ cao, huyện Hòa Vang) cho biết, Đà Nẵng có nhiều ưu đãi đầu tư và lợi thế về điều kiện môi trường và tiềm năng đầu tư so với các địa phương khác trên cả nước.
Nguồn cung nhân lực của thành phố trong lĩnh vực hoạt động của công ty rất phong phú với các sinh viên tốt nghiệp từ hơn 25 trường đại học, cao đẳng và đào tạo nghề. Bên cạnh đó, Khu Công nghệ cao Đà Nẵng có các chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp về miễn giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng hạ tầng, ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế nhập khẩu rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Sự kiện Diễn đàn Đầu tư Đà Nẵng 2022 sẽ là cơ hội cho tất cả các nhà đầu tư tìm thêm cơ hội kinh doanh.
Offenbar hast du diese Funktion zu schnell genutzt. Du wurdest vorübergehend von der Nutzung dieser Funktion blockiert.
Thực tiễn cho thấy, sau gần 30 năm trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, Đà Nẵng đã có những bước phát triển nhanh, từng bước khẳng định vị thế của một đô thị hiện đại, văn minh. Thành phố có diện tích 1.285 km2 (bao gồm 06 quận: Hải Châu, Cẩm Lệ, Thanh Khê, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà; 02 huyện là huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa). Toàn thành phố có trên 300 nghìn hộ dân với dân số trên 1.195 nghìn người.
Trong những năm qua, Thành ủy đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa triển khai tốt Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW (sau đây viết tắt là Kết luận số 06-KL/TW). Chính quyền thành phố dành sự quan tâm ngày càng lớn cả về chính sách và nguồn lực nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác của thành phố.
Triển khai Chỉ thị 40 trên tinh thần “Nhận thức đúng, hành động đúng”
Báo cáo của Thành ủy Đà Nẵng tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tín dụng chính sách nêu rõ, các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác đã quan tâm phối hợp trong việc thực hiện các hoạt động tín dụng chính sách xã hội, chỉ đạo cấp cơ sở phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với NHCSXH và chính quyền địa phương trong việc thực hiện đầy đủ các nội dung ủy thác; thực hiện công tác củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng, chất lượng hoạt động của các Tổ tiết kiệm và vay vốn (TK&VV); tập trung hướng dẫn bình xét đối tượng vay vốn theo quy định; đôn đốc thu hồi nợ đến hạn, nợ quá hạn; tăng cường kiểm tra giám sát, hướng dẫn người vay sử dụng vốn hiệu quả; tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ về tín dụng chính sách xã hội… Lồng ghép với các chương trình, dự án của các hội; làm tốt công tác tư vấn, hướng dẫn xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất, kinh doanh điển hình, giúp nhau vươn lên thoát nghèo và làm giàu. Phòng giao dịch NHCSXH huyện Hòa Vang chủ động phối hợp với các hội, đoàn thể thực hiện tốt hoạt động tín dụng chính sách trên địa bàn góp phần xây dựng huyện Hoà Vang đạt chuẩn nông thôn mới.
Chất lượng các nội dung được ủy thác ngày càng được nâng cao. NHCSXH và các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác tổ chức giao ban theo định kỳ hằng quý đối với cấp thành phố, cấp quận, huyện và hằng tháng đối với phường, xã. NHCSXH đã phối hợp với ủy ban nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp tổ chức tập huấn cho 100% cán bộ giảm nghèo, hội đoàn thể các cấp và ban quản lý tổ TK&VV; thường xuyên báo cáo với cấp ủy, chính quyền địa phương về công tác tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn. Số liệu đến ngày 30/6/2024, tổng dư nợ ủy thác đạt 4.940,66 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 98,58% tổng dư nợ. Trong đó: Hội Liên hiệp Phụ nữ quản lý dư nợ 1.706,76 tỷ đồng, Hội Nông dân quản lý dư nợ 1.097,56 tỷ đồng, Hội Cựu chiến binh quản lý dư nợ 1.166,89 tỷ đồng, Đoàn Thanh niên quản lý dư nợ 969,43 tỷ đồng. Chất lượng hoạt động của Tổ TK&VV được củng cố nâng cao; toàn thành phố có 1.913 Tổ TK&VV, trong đó 1.910 tổ TK&VV đạt loại tốt, khá. Huy động vốn thông qua tổ TK&VV là 273 tỷ đồng.
Thực hiện chủ trương huy động nguồn lực cho tín dụng chính sách xã hội, các cấp, các ngành đã tập trung các nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước vào một đầu mối là NHCSXH; tăng cường bổ sung nguồn vốn địa phương (cấp thành phố và cấp huyện) để ủy thác cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn.
Theo thống kê sơ bộ, đến ngày 30/6/2024, tổng nguồn vốn đạt 5.022,72 tỷ đồng, tăng 3.802,77 tỷ đồng (311,77%) so với năm 2014, trong đó: Nguồn vốn cân đối từ Trung ương đạt 2.817,88 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 56%/tổng nguồn vốn, tăng 1.688,77 tỷ đồng (149,57%) so với năm 2014( ); nguồn vốn nhận ủy thác đầu tư tại địa phương đạt 2.204,56 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 44%, tăng 2.113,95 tỷ đồng (2.332,87%) so với năm 2014.
UBND các cấp đã ưu tiên cân đối nguồn vốn ngân sách nhà nước để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội. Nguồn ngân sách địa phương ủy thác sang NHCSXH từ khi có Chỉ thị số 40-CT/TW đến ngày 30/6/2024 đạt 2.113,95 tỷ đồng (trong đó: thành phố tăng 2.102,6 tỷ đồng, huyện Hòa Vang tăng 11,3 tỷ đồng), nâng tổng nguồn vốn nhận ủy thác của địa phương đến ngày 30/6/2024 đạt 2.204,56 tỷ đồng.
Việc huy động sự đóng góp của các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và các cá nhân bổ sung nguồn vốn cho tín dụng chính sách xã hội chủ yếu qua hình thức gửi tiết kiệm của các tổ chức, cá nhân. Số dư huy động tiền gửi của tổ chức, cá nhân đến ngày 30/6/2024 đạt 202,25 tỷ đồng, tăng 194,78 tỷ đồng so với năm 2014. Nhằm tạo điều kiện cho tổ viên Tổ TK&VV thực hành tiết kiệm và từng bước tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng, thời gian qua, NHCSXH đã đẩy mạnh thực hiện huy động tiền gửi thông qua các Tổ TK&VV. Đến ngày 30/6/2024, đạt 273,14 tỷ đồng, tăng 186,33 tỷ đồng (tăng 214,64%) so với năm 2014.
Hiện nay, thành phố đang triển khai thực hiện 26 chương trình tín dụng (14 chương trình tín dụng chính sách của Trung ương và 12 chương trình tín dụng chính sách địa phương quy định). Tổng doanh số cho vay từ đầu năm 2014 đến nay đạt 11.090,55 tỷ đồng, với 247.164 lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn; doanh số thu nợ đạt 7.718,04 tỷ đồng. Đến ngày 30/6/2024, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt 5.011,73 tỷ đồng, tăng 3.794,70 tỷ đồng so năm 2014, với 85.919 hộ nghèo và các đối tượng chính sách còn dư nợ, bình quân một hộ dư nợ đạt 58,33 triệu đồng, tăng 43,18 triệu đồng so năm 2014; người nghèo và các đối tượng chính sách khác có nhu cầu và đủ điều kiện đều được tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ do NHCSXH cung cấp.
Sau 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, có thể khẳng định đây là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân và ngày càng đi vào cuộc sống, củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, góp phần đạt mục tiêu giảm nghèo nhanh, bền vững; xây dựng nông thôn mới; đảm bảo an sinh xã hội; ổn định chính trị, an ninh quốc phòng; thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Những kết quả đạt được trong thời gian qua đã khẳng định vai trò của tín dụng chính sách xã hội đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, là công cụ, giải pháp có tính căn cơ, lâu dài để địa phương thực hiện thắng lợi các mục tiêu, kế hoạch về giảm nghèo, tạo việc làm, xây dựng nông thôn mới, đảm bảo an sinh xã hội, phục hồi, phát triển kinh tế, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19. Thành tựu đã đạt được của tín dụng chính sách có thể được đánh giá là “điểm sáng” và là một trong những “trụ cột” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo của Việt Nam, khẳng định sự đúng đắn, hiệu quả trong việc duy trì và phát triển mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng với tính ưu việt và những đặc thù riêng có của NHCSXH khác với các tổ chức tín dụng tại địa phương.
Tín dụng chính sách xã hội được thực hiện thông qua NHCSXH đã phát huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi, “tín dụng đen”, đặc biệt là những vùng nông thôn, là một công cụ kinh tế thực hiện vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến với những đối tượng dễ bị tổn thương; là một trong những đòn bẩy kinh tế kích thích người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện cuộc sống.
Thống kê của NHCSXH TP Đà Nẵng nêu rõ, giai đoạn 2014-2024, NHCSXH đã giải ngân 11.090,55 tỷ đồng, thu nợ 7.178,04 tỷ đồng; hoạt động tín dụng chính sách của NHCSXH đã giúp 247.164 lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn NHCSXH. Nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách đã góp phần hoàn thành Đề án giảm nghèo giai đoạn 2016-2020 trước 02 năm, với 20.293 hộ thoát nghèo (có 6.514 hộ nghèo theo chuẩn Trung ương); tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho 140.400 lao động; 10.946 học sinh, sinh viên được vay vốn để trang trải chi phí học tập; cho vay xây dựng, nâng cấp, cải tạo 49.795 công trình nước sạch, công trình vệ sinh môi trường mới; giúp người dân trên địa bàn huyện Hòa Vang có nguồn vốn để xây dựng hệ thống cấp nước sạch, hệ thống thoát nước và hệ thống vệ sinh trong nhà đảm bảo an toàn về sức khỏe và phòng chống ô nhiễm môi trường nông thôn, góp phần vào việc thực hiện chương trình nông thôn mới trên địa bàn huyện…
5 bài học kinh nghiệm từ thập kỷ triển khai Chỉ thị 40
Thành ủy Đà Nẵng nói chung, các cơ quan liên quan trực tiếp đến triển khai Chỉ thị 40 về tín dụng chính sách nói riêng đều thống nhất qua chặng đường một thập kỷ triển khai Chỉ thị, đến nay, địa phương đã đúc rút ra 5 bài học kinh nghiệm quan trọng, đó là:
Thứ nhất, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đối với tín dụng chính sách xã hội: Đảng lãnh đạo - Chính quyền điều hành - NHCSXH tham mưu - Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát - tổ chức chính trị - xã hội phối hợp, đóng vai trò quan trọng trong thực hiện tín dụng chính sách xã hội. Nơi nào thể hiện rõ vai trò lãnh đạo, sự quan tâm của các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương thì nơi đó có chất lượng tín dụng, quy mô tín dụng được nâng cao, các đối tượng thụ hưởng được tiếp cận tín dụng chính sách nhiều, có điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân.
Thứ hai, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến tín dụng chính sách xã hội: Tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, kịp thời ban hành cơ chế, chính sách liên quan đến tín dụng chính sách xã hội nhằm huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tín dụng chính sách xã hội. Cơ chế, chính sách được Trung ương và địa phương nghiên cứu ban hành, điều chỉnh kịp thời và phù hợp hơn với thực tiễn. Nguồn vốn tín dụng chính sách đã được đầu tư đến đúng các đối tượng thụ hưởng.
Thứ ba, bố trí, huy động nguồn lực thực hiện tín dụng chính sách xã hội: Trung ương và địa phương phải luôn quan tâm tạo lập nguồn vốn để tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách xã hội. Tăng cường nguồn lực cho tín dụng chính sách xã hội là tăng cường nguồn vốn cho người nghèo và các đối tượng chính sách để họ tiếp cận, làm quen dịch vụ tài chính, tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện cuộc sống.
Thứ tư, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của NHCSXH trên địa bàn: Từ khi ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW, NHCSXH có điều kiện tổ chức hoạt động tốt hơn nhiệm vụ chính trị được Đảng và Nhà nước giao; hoạt động của NHCSXH không ngừng được củng cố, nâng cao, đảm bảo ổn định, hiệu quả bộ máy, ngày càng triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách. Đã định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, kịp thời biểu dương, khen thưởng đối với tập thể, cá nhân đóng góp vào hoạt động tín dụng chính sách xã hội.
Thứ năm, việc triển khai sáng tạo, xây dựng và tổ chức thực hiện thành công mô hình tổ chức, phương thức hoạt động tín dụng chính sách phù hợp với điều kiện thực tế, qua đó huy động được sức mạnh của các tổ chức chính trị - xã hội và toàn xã hội dành cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Mô hình tổ chức hoạt động, quản trị, điều hành, tác nghiệp; phương thức quản lý cho vay trực tiếp có ủy thác một số nội dung công việc thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng mạng lưới hoạt động Tổ TK&VV, điểm giao dịch xã là thực hiện tốt công tác xã hội hóa ngân hàng, huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc, đưa hoạt động của NHCSXH đến gần dân, tiết giảm được thời gian và chi phí. Mối quan hệ NHCSXH, chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội được hình thành và không ngừng vun đắp, làm việc trách nhiệm, tận tâm, tận tụy, sống nghĩa tình, sẻ chia, chung một mục đích vì hạnh phúc của người nghèo, vì an sinh xã hội và quyết tâm không ai bị bỏ lại phía sau.
Đại diện Thành ủy Đà Nẵng khẳng định, tới đây, Thành ủy cùng hệ thống chính trị toàn Thành phố mà hạt nhân là Ban đại diện Hội đồng quản trị NHCSXH các cấp của Thành phố sẽ tiếp tục triển khai hiệu quả Chỉ thị 40 về tín dụng chính sách. Theo đó, Thành ủy Đà Nẵng yêu cầu, tiếp tục nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đối với tín dụng chính sách xã hội; Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến tín dụng chính sách xã hội phù hợp với thực tiễn; Bố trí, huy động nguồn lực thực hiện tín dụng chính sách xã hội; Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của NHCSXH trên địa bàn./.
Sorry, JavaScript must be enabled.Change your browser options, then try again.
Bài này viết về thành phố Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng trước đây. Đối với thành phố trực thuộc trung ương hiện tại, xem
Đà Nẵng là một thành phố thuộc tỉnh và là tỉnh lỵ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng cũ trước khi thành lập thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương hiện nay. Thành phố Đà Nẵng lúc bấy giờ có địa giới hành chính tương ứng với các quận Hải Châu, Sơn Trà, Thanh Khê, phường Khuê Trung thuộc quận Cẩm Lệ và phường Khuê Mỹ, Mỹ An thuộc quận Ngũ Hành Sơn
Thành phố Đà Nẵng nằm trải dài hai bên bờ sông Hàn, từ ngã ba sông ra đến cửa biển Đà Nẵng. Bán đảo Sơn Trà nằm về phía đông bắc thành phố.
Trước khi giải thể vào năm 1997, thành phố có vị trí địa lý:
Ngày 17 tháng 8 năm 1888, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập ba thành phố ở Việt Nam là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng.[1] Ngày 3 tháng 10 năm 1888, Vua Đồng Khánh buộc phải ký một đạo dụ gồm 3 khoản quy định rõ "...Đà Nẵng được chính phủ Đại Nam kiến lập thành nhượng địa Pháp và nhượng trọn quyền cho chính phủ Pháp, và chính phủ Đại Nam từ bỏ mọi quyền hành trên lãnh thổ đó". Theo phụ đính của đạo dụ này, năm xã của huyện Hòa Vang gồm Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây nằm bên tả ngạn sông Hàn được cắt giao cho Pháp để lập "nhượng địa" Tourane với diện tích 10.000 ha.[2] Ngày 24 tháng 5 năm 1889, Toàn quyền Đông Dương Étienne Richaud ra nghị định thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam.[3] Đà Nẵng là thành phố loại 2, tương tự như thành phố Chợ Lớn thành lập trước đó.[4] Đơn vị hành chính này chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương thay vì triều đình Huế.[5] Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý do Khâm sứ đề nghị và Toàn quyền bổ nhiệm.[4] Ngày 15 tháng 1 năm 1901, dưới sức ép của Pháp, Vua Thành Thái buộc phải ký một đạo dụ nới rộng nhượng địa Đà Nẵng thêm 14 xã, cụ thể là thêm 8 xã thuộc huyện Hòa Vang bên tả ngạn sông Hàn và 6 xã thuộc huyện Diên Phước bên hữu ngạn sông Hàn.[6] Ngày 19 tháng 9 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định tách Đà Nẵng khỏi tỉnh Quảng Nam để trở thành một đơn vị hành chính độc lập gồm 19 xã.[7] Như vậy vào đầu thế kỷ XX, thành phố Tourane/Đà Nẵng đã vươn về phía tây và tây bắc, còn phía đông thì đã vượt sang hữu ngạn sông Hàn chiếm trọn bán đảo Sơn Trà.[8][6][9]
Đầu thế kỷ XX, Tourane được Pháp xây dựng trở thành một đô thị theo kiểu Tây phương. Cơ sở hạ tầng xã hội, kỹ thuật sản xuất được đầu tư. Sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến hàng xuất khẩu, sửa chữa tàu thuyền, kinh doanh dịch vụ được hình thành và phát triển; cùng với Hải Phòng và Sài Gòn, Tourane trở thành trung tâm thương mại quan trọng.[5] Cảng Đà Nẵng đã tương đối hoàn chỉnh và đi vào hoạt động từ giai đoạn 1933-1935. Sân bay dân dụng cũng được nhà cầm quyền sớm xây dựng vào năm 1926.[10] Hầu hết các công ty lớn nhất hoạt động ở Đông Dương đều hiện diện ở Đà Nẵng.[11] Dân số thành phố tăng lên nhanh chóng; năm 1936, Đà Nẵng có 25.000 người; năm 1945 có khoảng 30.000 người.[12]
Năm 1950, Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính phủ Quốc gia Việt Nam dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại. Từ tháng 10 năm 1955 thời Việt Nam Cộng hòa, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành phân chia lại địa giới hành chính. Lúc này, Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Đến ngày 31 tháng 7 năm 1962, tỉnh Quảng Nam được tách thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín, Đà Nẵng trực thuộc trung ương.[15]
Thị xã Đà Nẵng được chia thành 3 quận:
Vào những năm 1954-1955, dân số Đà Nẵng có khoảng hơn 50.000 người.[15]
Trong khi đó cuộc Chiến tranh Việt Nam ngày càng gia tăng. Tháng 3 năm 1965 các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn. Sân bay Đà Nẵng được coi là một trong những sân bay "tấp nập" nhất trong chiến tranh.[16] Năm 1967, Đà Nẵng được chính quyền Việt Nam Cộng hòa ấn định trực thuộc trung ương và xác định mục tiêu xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa cho vùng I và II chiến thuật. Mỹ cho xây dựng ở Đà Nẵng các căn cứ quân sự và kết cấu hạ tầng phục vụ cho mục đích quân sự như sân bay, cảng, kho bãi, cơ sở thông tin liên lạc...[17]
Năm 1973, khi quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã cho phân chia lại địa giới hành chính Đà Nẵng, giữ nguyên 3 quận như cũ, chỉ sáp nhập 28 khu phố bên dưới cấp quận thành 19 phường.
Thị xã Đà Nẵng được đặt dưới quyền điều hành của Hội đồng thị xã gồm 12 ủy viên và do một Thị trưởng đứng đầu.[18] Do chính sách đô thị hoá, dân số Đà Nẵng ngày càng tăng nhanh. Dân số thành phố từ mức 148.599 người vào năm 1964 tăng lên tới gần 500.000 người vào năm 1975.
Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, Đà Nẵng là đô thị lớn thứ hai miền Nam.[19] Tính đến trước sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cảng Đà Nẵng là nơi cung cấp hàng hóa cho cả vùng I chiến thuật, đồng thời là trung tâm tiếp tế cho gần 3 triệu dân miền Nam.[20] Toàn thị xã khi đó có hàng chục công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Người dân Đà Nẵng chủ yếu sống bằng nghề buôn bán.[21]
Ngày 4 tháng 10 năm 1975, Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời khu Trung Trung bộ ra Quyết định số 119/QĐ về việc hợp nhất tỉnh Quảng Nam và Đặc khu Quảng Đà (2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín và thị xã Đà Nẵng thời Việt Nam Cộng hòa) thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ba quận I, II, III của thị xã Đà Nẵng cũ trở thành đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng[22] (không còn đơn vị hành chính mang tên Đà Nẵng).
Ngày 30 tháng 8 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 228/CP,[23] và ngày 10 tháng 2 năm 1978, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng ra quyết định sáp nhập 3 quận I, II, III thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành một đơn vị hành chính là thành phố Đà Nẵng với 28 phường trực thuộc[22] (không còn đơn vị hành chính "quận", được gọi lại là "khu vực"). Lúc này, Đà Nẵng là tỉnh lỵ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Thành phố Đà Nẵng bao gồm 28 phường: An Hải Bắc, An Hải Đông, An Hải Tây, An Khê, Bắc Mỹ An, Bình Hiên, Bình Thuận, Chính Gián, Hải Châu I, Hải Châu II, Hòa Cường, Hòa Thuận, Khuê Trung, Mân Thái, Nại Hiên Đông, Nam Dương, Phước Mỹ, Phước Ninh, Tam Thuận, Tân Chính, Thạc Gián, Thạch Thang, Thanh Bình, Thanh Lộc Đán, Thọ Quang, Thuận Phước, Vĩnh Trung và Xuân Hà.
Ngày 5 tháng 5 năm 1990, thành phố Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại II.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được chia thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương.[24]
Ngày 23 tháng 1 năm 1997, Chính phủ thông qua Nghị định 7/1997/NĐ-CP về việc thành lập đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng.[25] Theo đó, giải thể thành phố Đà Nẵng cũ để thành lập các quận mới như sau:
Đến ngày 5 tháng 8 năm 2005, Chính phủ lại ban hành Nghị định 102/2005/NĐ-CP về việc thành lập phường, xã thuộc quận Thanh Khê và huyện Hoà Vang; thành lập quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.[26] Theo đó, phường Khuê Trung thuộc quận Hải Châu chuyển sang trực thuộc quận mới Cẩm Lệ.
Như vậy, thành phố Đà Nẵng cũ trước năm 1997 ngày nay có địa giới tương ứng với các quận Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà; phường Khuê Trung của quận Cẩm Lệ và các phường Khuê Mỹ, Mỹ An (2 phường này là phường Bắc Mỹ An cũ) của quận Ngũ Hành Sơn.
© Website Trung tâm Quan trắc Tài nguyên và Môi trường Đà Nẵng Địa chỉ: Tầng 5, số 24, đường Hồ Nguyên Trừng, phường Hòa Cường Nam, quận Hải Châu Điện thoại: 0236.3.740556 (Phòng Hành Chính) - 3.740661 (Trạm Quan trắc) - 3.740660 (Phòng Tư vấn kỹ thuật) Fax: 0236.3.740555 - Email: [email protected]
© Website Trung tâm Quan trắc Tài nguyên và Môi trường Đà Nẵng Địa chỉ: Tầng 5, số 24, đường Hồ Nguyên Trừng, phường Hòa Cường Nam, quận Hải Châu Điện thoại: 0236.3.740556 (Phòng Hành Chính) - 3.740661 (Trạm Quan trắc) - 3.740660 (Phòng Tư vấn kỹ thuật) Fax: 0236.3.740555 - Email: [email protected]