Luật Mới Nhập Quốc Tịch Đức 2023

Luật Mới Nhập Quốc Tịch Đức 2023

Mong muốn nhập tịch Đức ắt hẳn là mơ ước của nhiều học viên du học nghề. Từ tháng 6/2024, Đức đã áp dụng luật quốc tịch mới với nhiều thay đổi quan trọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình nhập tịch. Cùng Trung tâm Đức Nhân Tâm tìm hiểu luật “Quốc tịch mới” của Đức qua bài viết sau nhé:

Mong muốn nhập tịch Đức ắt hẳn là mơ ước của nhiều học viên du học nghề. Từ tháng 6/2024, Đức đã áp dụng luật quốc tịch mới với nhiều thay đổi quan trọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình nhập tịch. Cùng Trung tâm Đức Nhân Tâm tìm hiểu luật “Quốc tịch mới” của Đức qua bài viết sau nhé:

Những câu hỏi liên quan vấn đề đi du lịch sinh con tại Mỹ để nhập quốc tịch 2023

Dưới đây là các câu hỏi được thắc mắc nhiều nhất trong năm 2023 khi mà tổng thống Donald Trump ban hành một số dự định mới về sinh con ở Mỹ, được luật sư di trú Mỹ giải đáp.

Hỏi: “Chi phí sinh con ở Mỹ như thế nào?”

Đáp: “Hiện nay, nếu muốn sinh tại Mỹ bạn phải chuẩn bị được ít nhất 40.000 USD cộng thêm các chi phí phát sinh khác trong số tháng tiếp theo. Nên chi phí có thể sẽ lên đến khoảng 45.000 - 55.000 USD, tính luôn cả chi phí cho một khoảng thời gian dưỡng thai thoải mái nhất ở Mỹ.”

Hỏi: “Sau khi sinh con ở Mỹ người mẹ sẽ trở thành công dân Mỹ được không và khi nào?”

Đáp: “Bạn sẽ không được cấp quốc tịch Mỹ cho đến khi con bạn trưởng thành (21 tuổi) và có thẻ xanh khi đó mới tiến hành bảo lãnh theo diện con cái bảo lãnh cha mẹ đi Mỹ. Lưu ý, là bạn và con phải cư trú thêm 5 năm tại Mỹ, sau đó 1 năm sẽ được tiến hành nộp đơn để thi quốc tịch Mỹ.”

Hỏi: “Tôi đang mang thai 3 tháng với một người có quốc tịch Mỹ, nhưng hiện tôi đang ở Việt Nam và chuẩn bị xin visa B1 mục đích sinh con ở Mỹ để có quốc tịch. Vậy nếu tôi được Bộ ngoại giao cấp cho visa thì liệu có con tôi sau khi sinh ở Mỹ có được nhập tịch không?”

Đáp: “Quy định được đưa ra vào ngày 24/1/2023 bởi tổng thống Donald Trump chỉ định với Bộ ngoại giao chỉ ở mức độ rà soát không cấp visa du lịch cho người mang thai du lịch để sinh con. Còn hiến pháp Mỹ năm 1868 vẫn còn được áp dụng vậy nên nếu bạn xin visa trót lọt thì con bạn hiển nhiên trở thành công dân Mỹ nếu được sinh ra tại lãnh thổ nước này.”

Hỏi: “Để áp dụng cho việc ngăn chặn du lịch sinh con tại Mỹ 2023, Bộ ngoại giao Mỹ có đưa ra những quy định rà soát kỹ hơn hay không? Ví dụ như bắt khai đơn, xem liệu người xin visa có đang mang thai hay không, giấy tờ bằng chứng khác,...?”

Đáp: “Hiện tại trong đơn DS-160 để tiến hành xin visa đi du lịch không có mục yêu cầu xuất trình thông tin “tôi đang có thai hay tôi sắp sinh con”, tuy nhiên tổng thống Donald Trump trước đó có yêu cầu liệt kê số điện thoại và mạng xã hội sử dụng trong 5 năm vừa qua đã được áp dụng trong DS-160.”

Hỏi: “Có quy định nào rõ ràng để nhân viên Bộ ngoại giao áp dụng cho vấn đề người xin visa có thai và có ý định sinh con ở Mỹ để có quốc tịch hay không?”

Đáp: “Không. Quy định này chỉ dựa vào quyết định của nhân viên Bộ ngoại giao sau khi xem xét, phán đoán hoặc được cung cấp thông tin từ một nguồn nào đó. Và họ được quyền bác đơn xin visa du lịch đó nếu cảm thấy nghi ngờ.”

Hỏi: “Có những hình phạt nào áp dụng đối với người khai gian, hay bị phát hiện tại hải quan,... Hoặc có bị đuổi về, trục xuất hay một hình phạt nào đó hay không?”

Đáp: “Không. Quy định này chỉ định cho Bộ ngoại giao rằng là người nào đi xin visa đi du lịch có triệu chứng giống như mang bầu hoặc đang mang bầu,.. sẽ không cấp visa cho họ.”

Hỏi: “Hiện tôi đang có thai được 2 tháng vậy giờ tôi làm đơn DS-160 để xin visa B1 du lịch Mỹ được không?”

Đáp: “Vì luật do tổng thống Mỹ đưa ra hiện vẫn chưa có sự siết chặt nhất định trong đơn DS-160 không có mục nào yêu cầu bạn điền thông tin về tình trạng thai sản. Tuy nhiên nhân viên Bộ ngoại giao có thể bác đơn xin visa của bạn nếu phát hiện triệu chứng của mang thai ví dụ như nghén chẳng hạn. Trường hợp bạn không nghén hoặc nhân viên không phát hiện thì vẫn có thể được nhận visa du lịch Mỹ và thậm chí là sinh con ơ Mỹ được nhập quốc tịch.”

Hỏi: “Tôi sang Mỹ sinh con năm 2016 về phỏng vấn lại 1 lần bị từ chối, vậy trường hợp của tôi có được xin visa đi du lịch nữa không?”

Đáp: “Bạn có thể xin visa đi du lịch vì quy định này chỉ mới đưa ra vào 24/1/2023, tuy nhiên với tiền sử bạn đã từng sinh con ở Mỹ năm 2016 và trở về Việt Nam nên cơ hội xin visa đi du lịch lại rất thấp.”

Hỏi: “Khi tôi xin visa I-131 để có thể bay về Việt Nam trong quá trình đợi I-485 hồ sơ chuyển dạng visa du lịch sang xin thẻ xanh (con gái bảo lãnh). Vậy khi quay lại Mỹ tôi có cần phải gia hạn visa du lịch nữa không ?”

Đáp: “Không cần gia hạn visa đi du lịch vì được người thân nhân trực tiếp đứng ra bảo lãnh ở đây là con gái bảo lãnh cha mẹ.”

Hỏi: “Visa B1, B2 quá hạn bao lâu mới phải phỏng vấn lại?”

Đáp: “Thông thường sau khi Lãnh sự quán cấp thị thực trong hộ chiếu thì sẽ có hạn 1 năm và hết 1 năm đó bạn chỉ cần nộp hồ sơ vào Lãnh sự quán để xin gia hạn visa B1 và B2 này tuy nhiên sẽ có một số trường hợp được gọi phỏng vấn và một số thì không tùy thuộc vào hồ sơ của từng người.”

Báo Bundesgesetzblatt (Công báo Luật Liên bang) đưa tin Tổng thống Steinmeier đã ký ban hành Luật Quốc tịch mới ngày 22/3 vừa qua và văn bản luật đã được nộp lưu chiểu tại Bonn vào ngày 26/3.

Luật Quốc tịch đã được Quốc hội Đức (Bundestag) thông qua hồi tháng 1/2024. Luật mới có nhiều thay đổi, trong đó có điều khoản cho phép các công dân ngoài Liên minh châu Âu (EU) có giấy phép cư trú ở Đức được nhập quốc tịch chỉ sau 5 năm ở nước này (sau 3 năm trong những trường hợp đặc biệt) mà không cần phải từ bỏ quốc tịch ban đầu.

Thông thường, sau khi Quốc hội Đức và Hội đồng Liên bang (Bundesrat) thông qua một đạo luật, Tổng thống Liên bang sẽ ký ban hành và việc ký này thường diễn ra trong vòng 2 tuần kể từ khi luật được thông qua. Tuy nhiên, Luật Quốc tịch mới cần đến 7 tuần để thực hiện quy trình.

Theo Bundesgesetzblatt, dự luật được Tổng thống Frank-Walter Steinmeier, Thủ tướng Olaf Scholz và các bộ trưởng cấp cao ký vào ngày 22/3. Sau khi được Tổng thống liên bang ký ban hành, luật sẽ tự động có hiệu lực sau 14 ngày. Tuy nhiên, do Luật Quốc tịch mới đòi hỏi các cơ quan hành chính phải điều chỉnh nhiều quy trình nên sẽ mất nhiều thời gian hơn trước khi luật có hiệu lực. Không có ngày cụ thể nào được ấn định nhưng các nhà chức trách đã được giao thời gian chuẩn bị 3 tháng, có nghĩa là luật sẽ có hiệu lực vào khoảng ngày 22/6.

Tòa án Tối cao Mỹ: Ông Trump đủ tư cách tham gia bầu cử sơ bộ tại bang Colorado

Ngày càng nhiều người Việt xin nhập quốc tịch Đức để được bảo đảm quyền lợi như người Đức, đặc biệt lúc về già.

Nhất là khi thế giới đã hội nhập, đi lại và sống ở đâu đều được cả, miễn là ở đó cuộc sống được bảo đảm tốt, chắc chắn như có thể, mặt khác, mối quan hệ thân thuộc ở Đức ngày càng bền chặt vì con cháu, thì việc nhập quốc tịch đối với nhiều người Việt ngày càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Tiếp nối Bộ đề đáp án kiểm tra nhập quốc tịch song ngữ, được in riêng thành sách và phát hành rộng khắp từ tháng 1.2009, Thời báo Việt Đức xin được gửi đến Quý độc giả quan tâm, Luật Quốc tịch có hiệu lực từ 1.9.2009, gồm 42 điều, được TS Nguyễn Sỹ Phương chuyển ngữ và trình bày theo dạng văn bản pháp luật, chia ra nhiều kỳ, đăng trên từng số báo nối tiếp. Nếu có điều khoản nào cần giải đáp, xin Quý độc giả gọi điện thoại tới đường dây tư vấn có phí 09005105293, hoặc gửi thư đến chuyên mục Giải đáp pháp luật, miễn phí. Bản dịch này không có giá trị pháp lý thay thế nguyên bản tiếng Đức.

Điều §1 Người Đức là người có quốc tịch Đức

3. Được nhận làm con nuôi (Điều §6),

4. Có giấy chứng nhận quy định Điều §15 đoạn 1 hoặc 2 Luật Liên bang về những nạn nhân bị xua đuổi (Điều §7),

4a. Được coi là người Đức nhưng không có quốc tịch Đức hiểu theo tinh thần Điều §116, đoạn 1 Hiến pháp (Điều §40a),

5. Nhập quốc tịch Đức áp dụng cho người nước ngoài (Điều §8 đến 16, 40b và 10c),

(2) Có quốc tịch Đức còn cả những người từ 12 năm nay, cơ quan nhà nước Đức xử sự với họ như với người Đức, lý do xử sự đó xuất phát từ phía cơ quan nhà nước Đức, chứ không phải từ phía họ. Được xử sự như với người Đức, khi giấy chứng nhận quốc tịch, chứng minh thư, hộ chiếu của người đó do Đức cấp. Trong trường hợp này, quốc tịch Đức được tính từ thời điểm được cấp các giấy tờ trên. Con cháu họ theo đó cũng thuộc quốc tịch Đức.

(1) Trẻ em sinh ra có quốc tịch Đức, nếu bố/mẹ mang quốc tịch Đức. Trong trường hợp chỉ mỗi bố quốc tịch Đức và đòi hỏi phải xác nhận hay thừa nhận quan hệ cha con, thì phải có giấy thừa nhận hay xác nhận quan hệ cha con đó theo luật Đức. Phải nộp tuyên bố thừa nhận đó, hoặc phải tiến hành quá trình xác nhận quan hệ cha con đó trước khi đứa trẻ tròn 23 tuổi.

(2) Trẻ em bị bỏ rơi tìm thấy ở Đức được coi là con của người Đức cho tới khi có bằng chứng ngược lại.

(3) Trẻ em sinh ra ở Đức bố mẹ là người nước ngoài, thuộc quốc tịch Đức, nếu bố/mẹ

1- Đã sống thường xuyên hợp pháp ở Đức từ 8 năm và

2- Có quyền lưu trú không thời hạn, hoặc là công nhân Thụy Sỹ hoặc thuộc gia đình ở Thụy Sỹ có giấy phép lưu trú được cấp theo Hiệp định ngày 21.6.1999 giữa EU với các nước thành viên và Thụy Sỹ về tự do đi lại (BGB1.2001 II trang 810).

Quốc tịch Đức được ghi vào danh bạ cấp giấy khai sinh. Bộ Nội vụ Liên bang được ủy quyền ban hành một văn bản dưới luật với sự chấp thuận của Thượng viện, quy định phương pháp ghi sổ danh bạ quốc tịch, nêu tại câu 1.

(4) Quy định tại đoạn (1) không áp dụng cho trẻ em ở nước ngoài, nếu bố/mẹ người Đức sinh sau ngày 31.12.1999 ở nước ngoài và sống thường xuyên ở đó, ngoại trừ trường hợp, đứa trẻ vì vậy mà trở thành không quốc tịch. Không áp dụng câu 1, nếu bố/mẹ người Đức, trong vòng 1 năm, đăng ký khai sinh cho con với cơ quan đại diện Đức ở nước ngoài. Nếu cả hai bố mẹ đều quốc tịch Đức, thì chỉ áp dụng câu 1 khi cả hai đều thuộc diện quy định trong câu đó.

Bằng cách nộp bản tuyên bố trở thành công dân Đức, những trẻ em sinh trước ngày 1.7.1993 có bố người Đức, mẹ người nước ngoài, sẽ được nhận quốc tịch Đức, nếu

1. Được pháp luật thừa nhận hay xác định có quan hệ cha con,

2. Đã sống lưu trú thường xuyên và hợp pháp ở Đức ít nhất 3 năm, và

3. Tuyên bố phải được nộp trước lúc tròn 23 tuổi.

Con nuôi của người Đức tại thời điểm đơn nhận con chưa tròn 18 tuổi được nhận quốc tịch Đức, khi việc nhận con đó có hiệu lực pháp lý theo luật Đức. Con cái của người đó cũng thuộc quốc tịch Đức.

Người Đức hồi hương cùng thân nhân ăn theo, được nhập quốc tịch Đức cùng lúc với cấp giấy chứng nhận theo điều §15 đoạn 1 hoặc 2 Luật Liên bang về những người Đức bị xua đuổi.

(1) Người nước ngoài lưu trú thường xuyên và hợp pháp ở Đức có thể đệ đơn xin gia nhập quốc tịch Đức, nêu người đó:

1. Có năng lực làm chủ hành vi quy định tại điều §80, đọa 1, Luật Lưu trú hoặc có người đại diện pháp lý.

2. Không bị kết án phạt tù vi phạm tội hình sự, không bị áp dụng biện pháp hành chính, điều trị cưỡng bức hoặc để bảo đảm an toàn cho xã hội do mất năng lực pháp lý.

3. Có căn hộ riêng hoặc có chỗ ở vả.

4. Nuôi sống được bản thân và gia đình.

(2) Điều kiện nêu ở đoạn (1) điểm 2 và 4 có thể không xét đến khi có lý do vì lợi ích công cộng hoặc để tránh xảy ra những khó khăn đặc biệt cho người đệ đơn không thể vượt qua.

(1) Vợ/chồng hoặc vợ/chồng chưa cưới của người Đức được nhập quốc tịch theo các điều kiện quy định tại điều §8, nếu:

1. Họ mất hoặc từ bỏ quốc tịch họ từ trước tới nay hoặc có cơ sở để nhận thêm quốc tịch quy định tại Điều §12 và

2. Bảo đảm hòa nhập được vào xã hội Đức, ngoại trừ trường hợp họ không đủ kiến thức tiếng Đức (Điều §10, đoạn 1, câu 1, điểm 1 và đoạn 4), và không rơi vào trường hợp ngoại lệ quy định tại Điều §10 đoạn 6.

(2) Quy định tại đoạn (1) cũng có giá trị khi xin nhập quốc tịch được thực hiện trong vòng 1 năm sau khi chồng/vợ của họ là người Đức bị chết hay bản án li dị có hiệu lực, và bản thân họ đang phải chăm sóc con chung có quốc tịch Đức.

(1) Người nước ngoài 8 năm sống hợp pháp và liên tục ở Đức, có đủ năng lực làm chủ hành vi quy định tại Điều §80 Luật Lưu trú hoặc có người đại diện pháp lý sẽ được nhập quốc tịch khi đệ đơn, nếu

1. Thừa nhận thể chế dân chủ, tự do, ghi trong hiến pháp, và tuyên bố rằng, không theo đuổi hoặc ủng hộ hoặc chưa từng theo đuổi hay ủng hộ:

a) Chống lại thể chế dân chủ tự do, chống lại sự tồn tại hay an ninh của Liên bang hoặc Tiểu bang, hoặc

b) Làm ảnh hưởng xấu trái luật đối với hoạt động của các cơ quan chính quyền Liên bang hoặc Tiểu bang hay thành viên của họ, hoặc

c) Sử dụng bạo lực hoặc có hành vi chuẩn bị bạo lực gây hại cho hoạt động đối ngoại của nước Đức, hoặc tỏ ra mình đã từng theo đuổi hay ủng hộ những mục đích trên,

2. Có quyền lưu trú không hạn định, hoặc là công dân của Thụy Sỹ hay thuộc gia đình họ, có giấy phép lưu trú trên cơ sở Hiệp định giữa EU và các thành viên EU cùng Thụy Sỹ, ký kết ngày 21.6.1999 về tự do đi lại và lưu trú cho các nước thành viên theo các mục đích được quy định tại các Điều §16, 17, 20, 23 đoạn 1, 23 a, 24 và 25 đoạn 3 tới đoạn 5, Luật lưu trú,

3. Có thể tự bảo đảm được cuộc sống cho mình và thành viên gia đình phải nuôi dưỡng, không nhờ vào trợ cấp xã hội quy định tại Bộ Luật Xã hội từ quyển 2 đến 12, hoặc có nhận trợ cấp đó nhưng bởi lý do bất khả kháng,

4. Mất hoặc từ bỏ quốc tịch từ trước tới nay,

5. Không vi phạm tội hình sự bị kết án hoặc bị áp dụng biện pháp hành chính điều trị cưỡng bức hay để bảo đảm an toàn cho xã hội do mất năng lực pháp lý,

6. Có đủ kiến thức tiếng Đức và

7. Có đủ kiến thức về nhà nước, cuộc sống, pháp luật Đức.

Điều kiện quy định tại câu 1, điểm 1 và 7 được miễn trừ đối với người nước ngoài không đủ năng lực làm chủ hành vi, chiểu theo Điều §80, đoạn 1, Luật lưu trú.

(2) Vợ/chồng và con chưa trưởng thành của người nước ngoài có thể được nhập quốc tịch cùng, theo quy định tại đoạn (1), ngay cả trong trường hợp chúng chưa đủ 8 năm sống thường xuyên và hợp pháp ở Đức.

(3) Nếu người nước ngoài có giấy chứng nhận tham gia đạt kết quả một khóa học hòa nhập do Cơ quan Liên bang về di trú và lánh nạn cấp, thì thời hạn lưu trú quy định ở đoạn (1) được giảm xuống chỉ còn 7 năm. Nếu có thành tích hòa nhập đặc biệt, nhất là về tiếng Đức trội hẳn mức yêu cầu tối thiểu quy định tại đoạn (1), câu 1, điểm 6, thì thời hạn trên có thể được giảm xuống 6 năm.

(4) Điều kiện ở đoạn (1), câu 1, điểm 6 được coi là thỏa mãn, nếu người nước ngoài đạt kỳ kiểm tra tiếng Đức với chứng chỉ B1 nói và viết. Đối với trẻ em chưa tới 16 tuổi, điều kiện ở đoạn (1), câu 1, điểm 6 được coi là thỏa mãn, nếu chúng đáp ứng đòi hỏi về khả năng tiếng Đức thích ứng từng lứa tuổi của chúng.

(5) Điều kiện ở đoạn (1), câu 1, điểm 7, trên nguyên tắc, được coi là thỏa mãn, nếu đạt kỳ kiểm tra kiến thức nhập quốc tịch. Để phục vụ cho kỳ kiểm tra đó có một khóa học hòa nhập dành cho người xin nhập quốc tịch; nhưng không bắt buộc tham gia.

(6) Điều kiện ở đoạn (1), câu 1, điểm 6 và 7 được miễn trừ, nếu người nước ngoài không thể thỏa mãn bởi lý do bệnh tật về thể chất hoặc tinh thần, tâm lý hay thiểu năng, hoặc tuổi già.

(7) Bộ Nội vụ Liên bang, không cần trình Thượng viện, được ủy quyền ban hành văn bản dưới luật về thể thức kiểm tra và cấp chứng chỉ, chương trình và nội dung khóa học nhập quốc tịch quy định tại đoạn (5) trên cơ sở chủ đề của khóa học định hướng quy định tại Điều §43, đoạn 3, câu 1, Luật Lưu trú.

Cập nhật - trao đổi và kinh nghiệm du học ở Đức từ năm 2000