Vai Trò Của Doanh Nghiệp Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

Vai Trò Của Doanh Nghiệp Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

PGS.TS. TRẦN KIM CHUNG - TS. NGUYỄN THỊ LUYẾN

PGS.TS. TRẦN KIM CHUNG - TS. NGUYỄN THỊ LUYẾN

Chủ thể tham gia trong nền kinh tế thị trường

Trong một nền kinh tế thị trường, sẽ bao gồm các chủ thế sau:

Đối với kinh tế thị trường, chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Cụ thể, Nhà nước sẽ có tránh nhiệm quản lý và đưa ra cách khắc phục đối với các khuyết tật của thị trường, xây dựng thể chế kinh tế, cung cấp hàng hóa công cộng,…

Bên cạnh đó, Nhà nước sẽ thực hiện các chức năng cơ bản như kiểm soát độc quyền, xây dựng các thể chế/chính sách, phân phối lại của cải xã hội, quan tâm tới những yếu tố ngoại ứng,… để đảm bảo sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế lần bình đẳng xã hội.

Doanh nghiệp (Nhà sản xuất) là chủ thể trực tiếp sản xuất ra các loại sản phẩm/dịch vụ được trao đổi ở trên thị trường, đáp ứng các nhu cầu trực tiếp của người tiêu dùng. Đây là một trong những chủ thể quan trọng của nền kinh tế thị trường.

Vai trò của doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở việc đáp ứng nhu cầu hiện tại của xã hội. Mà còn thúc đẩy sự phát triển của cả nền kinh tế.

Những vai trò cụ thể của Doanh nghiệp:

Giống với Doanh nghiệp, người tiêu dùng cũng là chủ thể quan trọng nhất đối với nền KTT.

Sức mua cũng như nhu cầu của người tiêu dùng là tiền đề quan trọng cho hoạt động sản xuất. Bởi vì bản chất của kinh tế thị trường là nền kinh tế được sản xuất ra nhằm mục đích chính là để bán.

Chủ thể này cung cấp các dịch vụ về tài chính như đầu tư, vay tiền, gửi tiền tiết kiệm và góp phần quàn lý rủi ro tài chính có thể xảy ra.

Các chủ thể (cá nhân hoặc tập thể) cung cấp lao động hoặc dịch vụ lao động trong quá trình cung cấp và sản xuất hàng hóa.

Các chủ thể này làm nhiệm vụ cầu nối giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất trong quá trình trao đổi hàng hóa/ dịch vụ. Nhờ sự có mặt của nhà trung gian, nền kinh tế thị trưởng sẽ trở nên mềm mại và linh hoạt hơn.

Các đại diện chính cho chủ thể này là các tổ chức quốc tế, tập đoàn đa quốc gia, thị trường xuất khẩu.

Vai trò của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam

Nền kinh tế thị trường tại Việt Nam đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện đời sống người dân. Dưới đây là một số minh chứng cụ thể cho vai trò của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam:

1. Phân bổ nguồn lực hiệu quả: Việt Nam mở cửa nền kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài thông qua các khu công nghiệp, chính sách ưu đãi. Ví dụ, việc Samsung đầu tư lớn vào sản xuất điện thoại tại Bắc Ninh và Thái Nguyên không chỉ giúp tận dụng nguồn lao động giá rẻ mà còn góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang công nghiệp và dịch vụ.

2. Thúc đẩy cạnh tranh: Cạnh tranh trong các ngành dịch vụ và bán lẻ tại Việt Nam ngày càng gay gắt. Ví dụ các chuỗi siêu thị như Winmart, Coopmart liên tục cải thiện chất lượng dịch vụ và tung ra nhiều chương trình khuyến maaix để thu hút nhiều khách hàng. Điều này mang lại lợi ích cho người tiêu dùng khi họ có nhiều lựa chọn  hơn và được mua sắm với giá tốt.

3. Khuyến khích sáng tạo và cải tiến: Các doanh nghiệp công nghệ trong nước như VNG( Zalo) và FPT đã không ngừng đổi mới, nghiên cứu các sản phẩm và dịch vụ kỹ thuật số nhằm cạnh tranh với các đối thủ quốc tế. Nhờ sự sáng tạo này, Việt Nam đang dần trở thành một trung tâm công nghệ mới trong khu vực Đông Nam Á.

4. Tạo động lực phát triển kinh tế: Sự phát triển mạnh mẽ của các ngành thương mại điện tử như Shopee, Tiki và Lazada cho thấy nền kinh tế thị trường đã  tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mới phát triển. Nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng cao và sự cạnh tranh giữa các nền tảng này không chỉ mang lại nhiều lựa chọn cho tiêu dùng mà còn thúc đẩy giao thương, tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế.

Đặc trưng của nền kinh tế thị trường

So với những tổ chức kinh tế xã hội khác, kinh tế thị trường có đặc trưng riêng như:

Ví dụ về nền kinh tế thị trường hiện nay

Sau đây sẽ là 3 ví dụ điện hình về nền kinh tế thị trường.

Trên đây là toàn bộ thông tin có liên quan tới nền kinh tế thị trường mà DNSE muốn chia sẻ tới bạn đọc. Hy vọng qua những chia sẻ về kinh tế thị trường ở bài viết mang tới cho bạn đọc thật nhiều thông tin bổ ích.

Việc hiểu đúng về dịch vụ công và vị trí, vai trò của các chủ thể cung cấp dịch vụ công có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm phục vụ, cung cấp dịch vụ công trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, vai trò quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cũng ngày càng được thể hiện rõ trong việc bảo đảm và nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công, đáp ứng nhu cầu của xã hội(1).

Quan niệm và những đặc trưng về dịch vụ công

Dịch vụ công là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong đời sống xã hội ở cả phương diện khoa học và thực tiễn. Dịch vụ công được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu với cách tiếp cận khác nhau, nhưng đều có chung quan niệm là loại hình dịch vụ nhằm cung ứng những dịch vụ thiết yếu cho đời sống và nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích chung của xã hội. Nhà nước và tư nhân là chủ thể tham gia cung cấp những dịch vụ này và đặt dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước.

Theo nghiên cứu của Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ thì dịch vụ công được hiểu là những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm ổn định và công bằng xã hội, do Nhà nước chịu trách nhiệm, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận(2). Quan niệm khác cho rằng, dịch vụ công là một loại hình cung ứng các dịch vụ thiết yếu trên các lĩnh vực của quản lý hành chính nhà nước do cơ quan, tổ chức của Nhà nước hoặc khu vực tư cung cấp; cũng có quan niệm coi dịch vụ công là những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội do Nhà nước trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân thực hiện(3). Tuy có sự khác nhau, nhưng các quan niệm nêu trên đều xuất phát từ tính chất, đặc trưng của dịch vụ công, nhất là trong điều kiện và xu thế “xã hội hóa” hoạt động cung cấp các dịch vụ công hiện nay và thống nhất rằng Nhà nước chỉ nên đóng vai trò quản lý, duy trì các hoạt động cung cấp dịch vụ công theo một định hướng, trật tự nhất định nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội, đa dạng hóa các phương thức cung cấp dịch vụ công cho xã hội và bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động cung cấp dịch vụ công vận hành thống nhất, thông suốt, chất lượng, hiệu quả.

Thứ nhất, dịch vụ công là loại hình hoạt động được tổ chức để cung cấp những dịch vụ thiết yếu trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mục đích của dịch vụ công là phục vụ nhu cầu, lợi ích chung cho toàn xã hội; bảo đảm để tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, chủ thể quản lý nhà nước về dịch vụ công là các cơ quan nhà nước được thành lập từ Trung ương đến địa phương để thực hiện hoạt động quản lý hành chính; nhằm duy trì hoạt động dịch vụ công trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo những nguyên tắc và trật tự nhất định. Nhà nước là chủ thể quan trọng có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cung cấp dịch vụ công trực tiếp hoặc ủy quyền cho cá nhân, tổ chức ở khu vực tư (chuyển giao dịch vụ này cho khu vực tư) đảm nhiệm để phục vụ Nhân dân. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn là chủ thể đóng vai trò quản lý, điều tiết, bảo đảm để dịch vụ công trong các đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức tư nhân tham gia cung cấp những dịch vụ công bình đẳng, minh bạch và công bằng trong quá trình phân phối, cung cấp các dịch vụ công vận hành thống nhất, chất lượng, hiệu quả nhằm đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.

Thứ ba, dịch vụ công được tiến hành ở phạm vi khá rộng, trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề của đời sống xã hội và hoạt động này mang tính phục vụ, cung ứng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội; góp phần tạo điều kiện để cá nhân, tổ chức thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Từ phân tích trên có thể hiểu, dịch vụ công là những hoạt động do Nhà nước quản lý, trực tiếp đảm nhiệm hoặc ủy quyền cho khu vực tư thực hiện nhằm phục vụ, cung cấp những dịch vụ quan trọng, thiết yếu trên các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục, thể thao… để phục vụ cơ quan, tổ chức, cá nhân; đáp ứng những nhu cầu của cá nhân, tổ chức và toàn xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng xã hội theo quy định của pháp luật.

Vai trò của Nhà nước đối với quản lý dịch vụ công

Nhà nước giữ vai trò hết sức quan trọng đối với việc cung cấp dịch vụ công, đặc biệt trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế đang diễn ra sâu rộng, phong phú trên nhiều lĩnh vực; từng bước mở rộng và nâng cao chất lượng các dịch vụ công, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Việc cung cấp các dịch vụ này cũng là một trong những điều kiện để bảo đảm thực hiện tốt nhất các quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam trong tình hình mới.

Cụ thể, Nhà nước có vai trò điều tiết các dịch vụ công theo kinh tế thị trường, xuất phát từ nhu cầu xã hội. Để thực hiện mục tiêu bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội, Nhà nước đẩy mạnh xã hội hóa, chuyển giao một số dịch vụ công cho tổ chức, cá nhân đảm nhiệm để cung cấp ngày càng nhiều hàng hóa, sản phẩm và dịch vụ cho xã hội. Để thực hiện tốt chức năng của mình, Nhà nước vẫn cần nắm giữ vai trò quản lý đối với dịch vụ công theo quy định của pháp luật. Đồng thời, Nhà nước có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với chủ thể cung cấp dịch vụ công và chủ thể sử dụng dịch vụ công. Thông qua các hoạt động quản lý của mình, Nhà nước kiểm soát hành vi của các chủ thể thuộc đối tượng quản lý hành chính, bảo đảm các dịch vụ công diễn ra dân chủ, công khai, minh bạch và lành mạnh, thúc đẩy thị trường cung cấp các dịch vụ này phát huy thế mạnh và hoạt động hiệu quả nhất.

Trong quản lý xã hội nói chung và quản lý các dịch vụ công nói riêng, Nhà nước, với vai trò thực thi quyền lực công, là chủ thể duy nhất và có đủ điều kiện cần thiết về địa vị pháp lý, nguồn lực, vật lực để duy trì các hoạt động cung cấp dịch vụ công đảm bảo công bằng xã hội. Đối với những dịch vụ công mà khu vực tư nhân cung cấp có thể khiến cho một số nhóm người có thu nhập thấp, đối tượng yếu thế cần sự hỗ trợ, giúp đỡ, quan tâm của xã hội để tiếp cận được dịch vụ thì Nhà nước có vai trò, trách nhiệm cung cấp trực tiếp hoặc có chính sách để điều tiết, kiểm soát.

Với tư cách là chủ thể quản lý mang quyền lực nhà nước, Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong tổ chức, quản lý đối với mọi hoạt động cung cấp dịch vụ công trên các lĩnh vực của đời sống xã hội (kể cả các dịch vụ công do các cơ quan, tổ chức của Nhà nước, tổ chức xã hội và các dịch vụ được cung cấp, chuyển giao bởi các cá nhân, tổ chức ở khu vực tư nhân đảm nhiệm). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Nâng cao tính tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập; đẩy mạnh xã hội hóa; khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội tham gia phát triển, cung cấp dịch vụ công”(4), và “Phát triển mạnh khu vực dịch vụ dựa trên nền tảng ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tập trung phát triển mạnh một số ngành dịch vụ như: du lịch, thương mại, viễn thông, công nghệ thông tin, vận tải, logistics, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn pháp lý... Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, dịch vụ y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, dịch vụ văn hóa, thể thao... Tổ chức cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp, văn minh, hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế”(5).

Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công. Nhà nước là chủ thể duy nhất có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các dịch vụ công cho xã hội. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý, Nhà nước duy trì trật tự đối với dịch vụ công thông qua thiết chế tổ chức bộ máy và bằng hệ thống pháp luật là công cụ quan trọng để kiểm soát các hoạt động hành chính đối với các tổ chức cung cấp, chuyển giao các dịch vụ công cho công dân, tổ chức và toàn xã hội. Đồng thời, Nhà nước tạo mọi điều kiện cần thiết để huy động mọi nguồn lực và các tổ chức ở khu vực ngoài nhà nước tham gia, nhằm thúc đẩy phát triển theo cơ chế thị trường có sự kiểm soát, điều tiết của Nhà nước hướng đến mục tiêu xã hội hóa mạnh mẽ các dịch vụ công, bảo đảm cho người dân tiếp cận dễ dàng, thuận lợi và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và chất lượng cung cấp dịch vụ công

Một là, việc tổ chức thực hiện dịch vụ công trong nền kinh tế thị trường phải bảo đảm cơ sở chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở Việt Nam. Do đó, nâng cao năng lực quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước đối với dịch vụ công nói riêng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các thể chế, thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển đã và đang là một trong những nội dung quan trọng của cải cách hành chính nhà nước nhằm giải quyết tốt những yêu cầu, nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm nhu cầu thiết yếu của công dân, tổ chức và toàn xã hội. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ công phù hợp với mỗi loại hình, phương thức cung ứng dịch vụ theo hướng nâng cao chất lượng, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức bộ máy, xác định rõ trách nhiệm của đơn vị cung cấp dịch vụ công cho xã hội. Cụ thể: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản”(6) và “Nâng cao chất lượng dịch vụ công; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả”(7).

Hai là, việc tổ chức, thực hiện các hoạt động về dịch vụ công phải được tiến hành trên cơ sở pháp luật; bảo đảm pháp luật công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nước đối với dịch vụ công trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ những cơ sở chính trị, pháp lý, các dịch vụ công được tổ chức, thiết lập thể chế và những cơ chế vận hành nhất định, từng bước tạo điều kiện để các dịch vụ công đi vào nề nếp theo trật tự nhất định.

Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ đã làm xuất hiện nhiều nhu cầu về dịch vụ công, đòi hỏi phải tiếp tục mở rộng các dịch vụ công, ứng dụng có hiệu quả những thành tựu của khoa học, công nghệ nhằm giải quyết kịp thời, chính xác các trình tự, thủ tục cho người dân, tổ chức tham gia các thủ tục này, bảo đảm phục vụ tốt những nhu cầu, lợi ích, nghĩa vụ của công dân, tổ chức là chủ thể thụ hưởng những dịch vụ được cung cấp, tăng cường cải thiện, mở rộng các lĩnh vực, ngành nghề cung cấp dịch vụ công, đa dạng hóa và xã hội hóa mạnh mẽ việc cung cấp dịch vụ.

Để giải quyết tốt những yêu cầu, nhu cầu của cá nhân, tổ chức đối với việc phục vụ, cung ứng các dịch vụ công, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, cần tiếp tục phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý, cung cấp dịch vụ công, huy động mọi nguồn lực trong xã hội, tạo điều kiện để mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đủ điều kiện đều được tham gia cung cấp các dịch vụ công và được tiếp cận, sử dụng dịch vụ công được thuận lợi, dễ dàng, chất lượng và hiệu quả hơn.

Ba là, cùng với việc hoàn thiện các thể chế, thiết chế của nền kinh tế thị trường, bảo đảm để các dịch vụ công phát triển nhanh, mạnh, bền vững, cần khẩn trương đánh giá, tổng kết và phân loại đúng đắn các loại hình, phương thức của dịch vụ công. Trên cơ sở kết quả phân tích, khảo sát, đánh giá về kết quả và hạn chế của việc cung cấp dịch vụ công thời gian qua, căn cứ yêu cầu, đòi hỏi đặt ra hiện nay và xu thế trong thời gian tới để phân loại dịch vụ nào phải do Nhà nước đảm nhiệm trong quá trình quản lý để thực hiện thẩm quyền; dịch vụ nào do Nhà nước phối hợp cung cấp theo hình thức công - tư; dịch vụ nào cần xã hội hóa, mức độ chuyển giao cho khu vực tư nhân, cơ chế hoạt động và sự điều tiết của Nhà nước đối với dịch vụ công do khu vực tư nhân đảm nhiệm hoàn toàn… Nhà nước chịu trách nhiệm điều tiết, kiểm soát thông qua hệ thống pháp luật và các chính sách cụ thể để hình thành cơ chế quản lý phù hợp, hiệu quả hơn.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục phân định rõ dịch vụ công theo tính chất, tác dụng của từng loại dịch vụ để sắp xếp, tổ chức khoa học, phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội như: dịch vụ hành chính công (gắn với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền quản lý của Nhà nước), được tiến hành bởi các chủ thể thực hiện quyền hành pháp (trong một số hoạt động như đăng ký, cấp phép, lập và cấp một số giấy tờ cần thiết cho cá nhân, tổ chức…); dịch vụ sự nghiệp công, được cung cấp bởi các đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức xã hội và từ khu vực tư (cá nhân, tổ chức) nhằm cung cấp các dịch vụ công trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, khoa học, thể dục - thể thao…; dịch vụ công ích, cung cấp các hàng hóa, dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu thiết yếu bảo đảm phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người dân, tổ chức và cộng đồng xã hội như thu gom, xử lý nước thải, rác thải, dịch vụ vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch… Chủ thể thực hiện cung cấp các dịch vụ này bao gồm các doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân được Nhà nước ủy quyền thực hiện.

Bốn là, cần nghiên cứu chuyên sâu về việc tách hoạt động cung ứng dịch vụ công ra khỏi hoạt động quản lý nhà nước; làm rõ các yêu cầu đặt ra đối với việc cung cấp các dịch vụ công quan trọng, đặc thù, những yếu tố tác động đến cung ứng dịch vụ công… để xác định mối tương quan giữa khu vực công với khu vực tư trong cung cấp dịch vụ công đối với xã hội; phân cấp quản lý phù hợp, bảo đảm tính khách quan, khoa học trong hoạt động quản lý và hoạt động cung cấp dịch vụ công. Đây cũng là cơ sở để Nhà nước ban hành pháp luật, xây dựng cơ chế, hoạch định chính sách và thực thi chính sách, pháp luật đối với dịch vụ công.

Năm là, cần chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức cũng như lực lượng cung cấp dịch vụ công trong khu vực tư nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng trong hoạt động cung ứng dịch vụ công. Đồng thời, thường xuyên chỉ đạo, điều hành, giám sát, thanh tra, kiểm tra để ngăn chặn, phát hiện và xử lý kịp thời những sai sót, vi phạm trong tổ chức thực thi chính sách pháp luật về dịch vụ công. Tăng cường sự đánh giá, phản hồi của cá nhân, tổ chức sử dụng dịch vụ công đối với các tổ chức cung cấp dịch vụ công.

Sáu là, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, cung cấp thông tin đến người dân; tiếp tục cải cách hành chính; đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, áp dụng công nghệ thông tin… để phát huy ưu điểm, lợi thế của loại hình dịch vụ công điện tử (dịch vụ công trực tuyến) nhằm rút ngắn thời gian, giảm chi phí, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, tổ chức sử dụng các dịch vụ công dễ tiếp cận và góp phần nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân.

Hiện nay, nhu cầu tiếp cận, sử dụng dịch vụ công gia tăng đã khẳng định tầm quan trọng của việc cung cấp dịch vụ công bởi Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Hoạt động cung cấp dịch vụ công không chỉ do Nhà nước đảm nhiệm mà được ủy nhiệm, chuyển giao cho khu vực tư theo xu hướng xã hội hóa nên sẽ ngày càng phong phú, đa dạng về chủ thể phục vụ, dịch vụ được cung cấp nhanh chóng, chính xác, thuận lợi; không ngừng được cải thiện và nâng cao chất lượng; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các chủ thể tham gia, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa./.

(1) Bài báo thuộc Đề tài khoa học: Quản lý nhà nước đối với dịch vụ công trong giai đoạn hiện nay. Đề tài cơ sở của Trường Đại học Luật Hà Nội. Mã số: LH-2020-9/ĐHL-HN, năm 2020.

(2) Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ: Dịch vụ công - đổi mới quản lý và cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG-ST, H.2007, tr.49.

(3) Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, TS Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hòa, Đổi mới cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam, Nxb Thống kê, H.2006, tr.12.

(4),(5),(6),(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H. 2021, tr.122, tr.125, tr.132, tr.177.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI, XII.

3. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.

4. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.

5. Chu Văn Thành (chủ biên), Dịch vụ công - đổi mới quản lý và tổ chức cung ứng ở Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG-ST, H.2007.

6. Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hòa, Đổi mới cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam, Nxb Thống kê, H. 2006.

7. Lê Chi Mai, Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, Nxb CTQG, H. 2003.

8. Lê Chi Mai, Cải cách dịch vụ hành chính công, Nxb Lý luận chính trị, H.2007.

9. Vũ Công Giao, Bùi Tiến Đạt, Nguyễn Thị Minh Hà, Dịch vụ công - một số vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn, Nxb Tư pháp, H.2020.

10. Phạm Thị Thu Hà, Quản lý nhà nước đối với xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục, Luận văn Thạc sĩ Luật học bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2019.

TS Tạ Quang Ngọc, Trường Đại học Luật Hà Nội

Tạp chí Tổ chức nhà nước số 6/2021

GS, TS LÊ NGỌC HÙNGĐại học Quốc gia Hà NộiTS ĐỖ VĂN QUÂNHọc viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phát triển kinh tế - xã hội từ quan điểm “Nhỏ là đẹp” của Schumacher

“Nhỏ là đẹp” (Small is Beautiful), là tên một cuốn sách thuộc 100 cuốn sách kinh tế học có tầm ảnh hưởng lớn nhất thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Cuốn sách “Nhỏ là đẹp”(1) do nhà kinh tế học Schumacher xuất bản lần đầu năm 1973 và được dịch ra tiếng Việt xuất bản năm 1994. Theo quan điểm “Nhỏ là đẹp” các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có ưu thế vượt trội so với doanh nghiệp lớn đến mức được gọi là “đẹp” đối với sự phát triển bền vững và phát triển con người. “Nhỏ là đẹp” bởi vì các DNNVV tạo dựng những thứ khá ít tiền, để trong thực tế ai cũng có thể tiếp cận, sử dụng; những thứ thích hợp cho việc ứng dụng ở quy mô nhỏ và những thứ đặc biệt phù hợp với nhu cầu đổi mới, sáng tạo của con người. “Nhỏ là đẹp” bởi DNNVV luôn trực tiếp là doanh nghiệp “của con người, do con người và vì con người”, do vậy cần phát triển, phát huy vai trò của loại doanh nghiệp “đẹp” này trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế tư nhân trước hết là vấn đề lợi nhuận có tác động nhất định đến môi trường sống. Giáo sư Leopold Kohr bậc thầy của Schumacher đã phát hiện ra rằng các hoạt động kinh tế quy mô nhỏ luôn gây ít tác hại đối với môi trường hơn so với các hoạt động kinh tế quy mô lớn(2), rằng quy mô sản xuất nhỏ thích hợp với nền kinh tế bền vững.

Schumacher đã chỉ rõ các vai trò các DNNVV trong phát triển kinh tế, xã hội, môi trường và đây là nội dung quan trọng, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội. Các DNNVV luôn có ưu thế lớn trong việc tạo ra mức đầu tư nhỏ cho một chỗ làm việc có lợi nhuận dương. Tất nhiên, quy mô đầu tư nhỏ thì lợi nhuận cũng nhỏ. Bù lại, DNNVV có vai trò tạo động lực làm việc, tăng thu nhập cho người lao động ở bất kỳ hoàn cảnh nào và ít ảnh hưởng xấu đến môi trường tự nhiên. Có thể thấy DNNVV có khả năng thực hiện đầy đủ nhất sự quản lý phát triển xã hội theo nghĩa rộng nhất của nó là “không để ai bị bỏ lại phía sau”, “không ai bị bỏ ngoài sự phát triển bền vững”, mở ra cơ hội “giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”; “bảo đảm sự phát triển hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng, dân chủ”(3).

Quan niệm của Schumacher và các cộng sự gợi ra ý tưởng phân tích vai trò của DNNVV đối với không chỉ kinh tế mà đối với sự phát triển bền vững, bao gồm phát triển kinh tế, môi trường và xã hội(4). Điều này đòi hỏi việc nghiên cứu xây dựng khung phân tích theo lý thuyết hệ thống, trong đó các DNNVV là một tiểu hệ thống kinh tế luôn hình thành, phát triển, vận động và biến đổi trong mối tương tác với các môi trường xung quanh. Các vai trò của DNNVV thể hiện ở đầu ra đối với môi trường và phụ thuộc rất nhiều vào các đầu vào gồm: các nguồn đầu tư kinh tế hữu hình như nguồn vốn tài chính và các nguồn đầu tư phi kinh tế, nguồn vốn vô hình như vốn văn hóa, vốn gia đình, vốn con người. Đặc biệt, xuất hiện một loại vốn vô hình mới là vốn “học tập suốt đời” và “xã hội học tập” đang trở thành một cách tiếp cận mới cho tăng trưởng, phát triển và tiến bộ xã hội(5).

Schumacher và các cộng sự còn chỉ rõ, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, nhất là đối với phát triển bền vững và phát triển con người là lợi thế vượt trội và “đẹp” của nền kinh tế nhỏ và vừa so với nền kinh tế lớn. Theo lý thuyết hệ thống tổng quát của

Bertalanffy, Parsons, Luhmann, Gharajedaghi và những người khác(6), vai trò “nhỏ là đẹp” của các DNNVV phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào từ các môi trường xung quanh bao gồm cả yếu tố địa - chính trị - hành chính, yếu tố dân số và nhất là yếu tố giáo dục, đào tạo và các yếu tố vô hình khác của từng quốc gia, cộng đồng cụ thể.

Tại Việt Nam hiện nay, các DNNVV chiếm tỷ lệ cao nhất trong nền kinh tế. Theo thống kê “đến cuối năm 2022, Việt Nam có khoảng 800.000 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó 98% là DNNVV, thu hút hơn 5,6 triệu lao động, đóng góp khoảng 45% tổng sản phẩm trong nước (GDP) và 31% vào tổng thu ngân sách hằng năm”(7).

2. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng bền vững ở Việt Nam hiện nay

DNNVV có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển. Mỗi nền kinh tế và địa phương có đặc điểm phát triển kinh tế khác nhau thì vai trò của DNNVV được thể hiện ở các mức độ khác nhau, nhưng đều thể hiện rõ trên các khía cạnh cốt lõi: vai trò đối với kinh tế và vai trò đối với xã hội. Điều này được thể hiện cụ thể sau:

Một là, các DNNVV có mặt ở hầu hết các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường. Do có lợi thế quy mô nhỏ và vừa nên dễ linh hoạt, sáng tạo hơn trong sản xuất kinh doanh, có thể kết hợp chuyên môn hóa và đa dạng hóa, đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Các DNNVV có vòng quay vốn nhanh, không cần số vốn đầu tư lớn, không cần có lao động có trình độ cao, gia nhập thị trường và rút khỏi thị trường dễ dàng.

Hai là, các DNNVV góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho người lao động, giảm áp lực về việc làm và thất nghiệp. Hiện nay, giải quyết việc làm cho người lao động góp phần ổn định xã hội và an sinh xã hội là vấn đề đặc biệt quan trọng của đất nước. Trên thực tế, DNNVV tạo ra việc làm cho số lượng lớn những người mới tham gia vào thị trường lao động hằng năm. Đồng thời, sử dụng được nguồn lực lao động tại địa phương, do đó góp phần tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người dân.

Ba là, các DNNVV tham gia vào quá trình tạo lập sự phát triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng, lãnh thổ. Thực tế, các doanh nghiệp lớn thường tập trung chủ yếu ở các thành phố, khu công nghiệp lớn, chính điều này đã gây ra tình trạng mất cân đối về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền. Do đó, phát triển DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập sự cân bằng về trình độ phát triển giữa các vùng, miền và sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững. Sự phát triển của các DNNVV ở nông thôn sẽ thu hút những người lao động thiếu hoặc chưa có việc làm và có thể thu hút lượng lớn lao động thời vụ trong các kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất - kinh doanh, rút dần lao động làm nông nghiệp sang làm công nghiệp hoặc dịch vụ, thực hiện phương châm “ly nông bất ly hương”.

Bốn là, đóng góp của DNNVV vào ngân sách nhà nước ngày càng tăng. “Khi doanh nghiệp phát triển mạnh thì doanh thu của doanh nghiệp tăng lên, và do đó nộp thuế doanh thu cho Nhà nước cũng sẽ gia tăng. Khu vực DNNVV ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong thu ngân sách của cả nước, với tốc độ tăng tương đối cao, bình quân hàng năm đạt trên 20% giai đoạn 2016-2020”(8).

Năm là, các DNNVV cung cấp ra thị trường khối lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng và phong phú về mẫu mã, chủng loại, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. DNNVV chiếm tỷ lệ cao trong tổng số doanh nghiệp cả nước, tham gia hoạt động trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực sản xuất hàng hóa, dịch vụ cung cấp ra thị trường đa dạng về chủng loại, mẫu mã... đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Sáu là, DNNVV góp phần tạo môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và gia tăng nguồn hàng xuất khẩu. Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, số lượng các DNNVV được thành lập trong các lĩnh vực, ngành nghề ngày càng nhiều là động lực thúc đẩy các DNNVV phải thường xuyên đổi mới, cải tiến công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, mẫu mã để cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước cũng như hàng hóa của doanh nghiệp nước ngoài. “DNNVV đã chiếm tỷ trọng chính trong một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản, hải sản, may mặc, giày dép... Số lượng DNNVV tham gia kinh doanh xuất, nhập khẩu chiếm khoảng 90% tổng số doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu trên cả nước”(9).

Bảy là, các DNNVV góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư, đồng thời khai thác và sử dụng tối ưu các nguồn lực của từng địa phương. DNNVV là mô hình đầu tư phù hợp cho những chủ thể có nguồn vốn hạn chế muốn tham gia kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, các DNNVV có khả năng huy động vốn từ bạn bè, người thân. Do yêu cầu về số lượng vốn ban đầu không nhiều, các DNNVV có khả năng thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.

Tám là, các DNNVV là tiền đề tạo ra các doanh nghiệp lớn. Với những doanh nghiệp thành công, quy mô của các doanh nghiệp sẽ được mở rộng và có thể trở thành các doanh nghiệp lớn. DNNVV bước đầu có thể tham gia vào quá trình hình thành mối liên kết với các doanh nghiệp lớn. DNNVV cũng là những nhà cung ứng nguồn vật tư, nguyên liệu, linh kiện cho sản xuất của các doanh nghiệp lớn. DNNVV có thể là nơi đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực cho doanh nghiệp lớn, bởi họ có thời gian rèn luyện, thử thách ở môi trường quy mô nhỏ.

3. Giải pháp nhằm phát huy vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững

Một là, tăng cường truyền thông, định hướng DNNVV phát triển theo hướng bền vững. DNNVV cần nâng cao trách nhiệm xã hội thông qua những hoạt động đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội gắn với phát triển theo hướng bền vững của từng địa phương và cả nước; bảo vệ môi trường.

Hai là, phát triển DNNVV phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu. Hiệu quả kinh tế thể hiện trình độ và năng lực quản lý, điều hành của chủ doanh nghiệp và quyết định sự phát triển của doanh nghiệp. “Phát triển DNNVV phải lấy hiệu quả làm mục tiêu, nâng cao thu nhập và đời sống không chỉ cho chủ doanh nghiệp mà cả những lao động trong các DNNVV, nộp ngân sách cho địa phương, góp phần vào chương trình giảm nghèo bền vững gắn với khuyến khích làm giàu theo pháp luật”(10).

Ba là, hoàn thiện thể chế, các chính sách hỗ trợ, ổn định môi trường kinh doanh. Xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất, minh bạch, phù hợp với luật lệ quốc tế. Cần rà soát thường xuyên hệ thống quy định của pháp luật về DNNVV; sửa đổi những quy định còn chồng chéo, trùng lặp. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ, hình thành các trung tâm nghiên cứu và đổi mới sáng tạo để chuyển giao công nghệ cho DNNVV. Các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó cần chú trọng, ưu tiên phát triển khu vực DNNVV phù hợp với hướng phát triển, điều kiện kinh tế - xã hội và tiềm năng, nguồn lực của các địa phương.

Bốn là, tập trung cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển DNNVV. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI):

Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính: Rà soát, đơn giản hóa các thủ tục hành chính theo hướng rút ngắn quy trình xử lý, giảm thời gian thực hiện, giảm chi phí hành chính. Công khai, minh bạch thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, đơn vị; cung cấp thông tin để duy trì và cập nhật cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính;

Nâng cao chất lượng phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, công tác phối hợp giữa các sở, ngành và cấp huyện. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính gắn với trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức liêm chính phục vụ nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp;

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động của cơ quan nhà nước, giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Cổng thông tin điện tử Dịch vụ Hỗ trợ doanh nghiệp;

Tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ doanh nhân gắn với nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập cho doanh nghiệp giai đoạn 2020 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045;

Hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV được tiếp cận các nguồn lực (như đất đai, tài chính, lao động, khoa học công nghệ,...); hoàn thiện cơ chế, chính sách để xây dựng và phát triển hạ tầng thông tin dữ liệu về doanh nghiệp hoạt động cùng ngành hàng, về thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ...

Năm là, nâng cao năng lực của chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp về quản trị kinh doanh, quản trị chiến lược. Doanh nhân cần thường xuyên cập nhật tri thức mới, những kỹ năng cần thiết để lãnh đạo doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, chú trọng chiến lược cạnh tranh và những kỹ năng mang tính chiến lược, như quản trị chiến lược, quản trị rủi ro, sự nhạy cảm trong quản lý. Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho lãnh đạo DNNVV nhằm nâng cao khả năng phân tích, dự báo và định hướng chiến lược phát triển... Khích lệ, động viên DNNVV cần nêu cao ý thức vươn lên, phát huy lợi thế, nâng cao sức cạnh tranh của mình.

Sáu là, DNNVV cần có chiến lược phù hợp trong việc lựa chọn thị trường, phân khúc thị trường để khai thác, kinh doanh trên cơ sở quy mô, tiềm lực, loại hình hoạt động; chọn lựa phân khúc thị trường phù hợp là một giải pháp và đồng thời cũng là sự chuẩn bị kỹ lưỡng, an toàn cho sự phát triển ổn định của mỗi doanh nghiệp. “Mặt khác, mỗi doanh nghiệp cần khai thác hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ, thúc đẩy cho sự phát triển như: các giải pháp hỗ trợ từ nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; các chính sách, kế hoạch hỗ trợ của Nhà nước về nguồn vốn, tài chính, công nghệ, quản trị, kinh doanh”...(11).

Bảy là, tăng cường sự liên minh, liên kết của nhóm doanh nghiệp kinh doanh, hoạt động cùng ngành nghề dưới các hình thức như hợp tác kinh doanh, liên doanh, liên danh... Đây là một giải pháp phù hợp DNNVV nhằm phát huy vai trò, thế mạnh. “Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam đã ký kết hàng loạt các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, để nâng cao năng lực cạnh tranh, DNNVV cần tận dụng tối đa những tiềm lực về vốn, nhân lực, thị trường, văn hóa, kinh nghiệm kinh doanh... Các DNNVV cần biết cách giữ mối quan hệ tốt đẹp với các doanh nghiệp lớn trong bối cảnh thị trường cạnh tranh khốc liệt. Đặc biệt, các DNNVV cần minh bạch hoạt động và báo cáo tài chính, nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp, quản lý rủi ro”(12).

Tám là, các ngân hàng cần tăng cường tìm kiếm và tiếp cận các nguồn vốn cho các DNNVV. Thiết kế các sản phẩm cho vay đặc thù phù hợp với đối tượng khách hàng là DNNVV theo từng nhóm ngành nghề để đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng. Đồng thời, đơn giản hóa quy trình cho vay, yêu cầu cung cấp thông tin chính xác và có tư vấn, hướng dẫn chi tiết để các DNNVV có thể nắm bắt và thực hiện có hiệu quả. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy phát triển thị trường vốn; tạo điều kiện cho DNNVV huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu, từ các quỹ đầu tư, giảm sự lệ thuộc quá nhiều vào nguồn vay ngân hàng.

Chín là, phát huy vai trò của các hiệp hội, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp trong việc thúc đẩy sự phát triển của DNNVV. Nâng cao ý thức của cộng đồng xã hội đối với sự phát triển và phát huy vai trò của DNNVV trong phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững của từng địa phương cũng như của cả nước trong bối cảnh mới.

Như vậy, các DNNVV có vai trò to lớn đối với sự phát triển bền vững, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu và điều kiện phát triển của đất nước trong bối cảnh hiện nay. Do đó, cần có chiến lược phát triển DNNVV, góp phần bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Ngày nhận bài: 11-9-2023; Ngày bình duyệt: 16-11-2023; Ngày duyệt đăng: 22-11-2023.

(1) E.F.Schumacher: Nhỏ là đẹp: về lợi thế của quy mô vừa và nhỏ trong kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994.

(2) Bài viết này không đặt ra mục đích phê phán như Schumacher đã làm đối với nền kinh tế quy mô lớn, đối với các tập đoàn lớn. Bởi vì, từ giữa thế kỷ XIX, C. Mác đã từng chỉ ra hậu quả khủng khiếp của sản xuất đại công nghiệp cơ khí máy móc kiểu tư bản chủ nghĩa là sự tha hóa con người và tàn phá thế giới tự nhiên. Có thể hình dung, nền sản xuất to lớn kiểu tư bản chủ nghĩa này sản xuất ra lượng hàng hóa có giá trị bằng tất cả các thế kỷ trước cộng lại và tất yếu cũng tàn phá thiên nhiên và làm tha hóa con người một cách tương đương như vậy.

(3) Ngân hàng Thế giới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Việt Nam 2035 - Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ: Báo cáo tổng quan, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2018.

(4) Lê Ngọc Hùng: Xã hội học kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010.

(5) Joseph E.Stiglitz và Bruce C.Greenwald: Xây dựng xã hội học tập: cách tiếp cận mới cho tăng trưởng, phát triển và tiến bộ xã hội, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017.

(6) Lê Ngọc Hùng: Hệ thống, cấu trúc và phân hóa xã hội, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2015.

(7) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2022, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2022.

(8), (9) Lê Mạnh Hùng: Nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, Tạp chí Công thương số 15, tháng 6-2022.

(10) Võ Thiện Chín: Tiềm năng và định hướng phát triển DNNVV tại tỉnh Quảng Nam, Tạp chí Công thương, số 13, tháng 6-2022.

(11), (12) Nguyễn Lam Sơn: Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hà Nội, Tạp chí Tài chính, kỳ 2 tháng 8-2022.